Tuyến đường Ông Ích Khiêm – Bùi Tấn Diên
Tuyến đường Ông Ích
Khiêm
Địa Điểm:
Thị trấn Nam Phước
Lý Trình:
Đường Điện Biên Phủ đến đường Nguyễn Thành Hãn
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Danh thần triều Nguyễn; đỗ Cử nhân năm 1847; có công dẹp
loạn thổ phỉ vùng biên giới phía Bắc.
Tiểu sử nhân vật:
Ông Ích Khiêm sinh ngày 25-1-1829 tại làng Phong Lệ, tổng
Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc phường Hòa Thọ Tây, quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng). Ông đỗ cử nhân khi mới 15 tuổi và làm quan dưới triều
vua Tự Đức, từng giữ các chức như Tiểu phú sứ, Sơn phòng sứ, Tả thị lang Bộ
binh… Ông Ích Khiêm nổi tiếng là người văn võ song toàn, lập nhiều chiến công
hiển hách.
Tháng 9-1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng,
chính thức mở đầu cuộc xâm lăng nước ta. Biết được tài năng quân sự của Ông Ích
Khiêm, triều đình triệu ông về kinh đô Huế phong chức và cử vào Đà Nẵng cùng với
Nguyễn Tri Phương chỉ huy nghĩa binh đánh Pháp. Ông Ích Khiêm chỉ huy quân sĩ
cùng với nhân dân đắp lũy, đào hào, thực hiện “vườn không, nhà trống” quyết
không để quân Pháp tiến sâu vào nội địa. Trước sự ngăn chặn quyết liệt của
nghĩa quân do Nguyễn Tri Phương và Ông Ích Khiêm chỉ huy, âm mưu của thực
dân Pháp đã không thể thực hiện được. Đến năm 1860, Pháp đành phải rút quân khỏi
Đà Nẵng, chuyển vào đánh chiếm Gia Định.
Dù nổi tiếng thanh liêm, tài thao lược quân sự vượt trội
nhưng tính khí nóng nảy, thẳng như ruột ngựa làm không ít người ganh ghét. Khi
giữ chức Binh bộ tả Thị lang ông bị một số kẻ xấu hãm hại và đày vào nhà lao
Bình Thuận. Tại đây, một phần vì phẫn uất, phần vì cuộc sống tù đày khổ cực nên
sức khỏe giảm sút, ông đã qua đời tại nhà ngục Bình Thuận vào tháng 7-1884.
Tuyến Đường Bùi Tấn Diên
Địa Điểm:
Thị trấn Nam
Phước
Lý Trình:
Sông Bầu Vân đến
Trung tâm thương mại
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Người theo vua Lê Thánh Tông mở mang bờ cõi về phương Nam
(năm 1471); có công khai phá vùng đất phía Tây huyện Duy Xuyên.
Tiểu sử nhân vật:
Bùi Tấn Diên quê ở Nghệ An, cho đến nay
vẫn không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống vào khoảng nửa cuối thế
kỷ 15 dưới triều Lê Thánh Tông. Ông đã theo đoàn quân nam tiến của vua Lê vào
Quảng Nam, khai phá vùng đất mới, lập ra làng Vĩnh Trinh.
Huyện Duy Xuyên, trước có tên là huyện
Hy Giang thuộc phủ Thăng Hoa nguyên là đất Chiêm động của Chiêm Thành. Thời nhà
Hồ, sau khi lên ngôi năm 1402 Hồ Hán Thương đã đem đại binh vượt qua Hải Vân
đánh thắng quân Chiêm, chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy mở rộng biên cương đến Quảng
Ngãi. Nhà Hồ chia hai động này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ
sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị. Họ Hồ hạ lệnh cho dân không có ruộng ở
Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ tên
châu mình trên cánh tay cho khỏi bỏ trốn. Những người có trâu đem nộp thì được
ban phẩm tước để lấy trâu cấp phát cho dân cày. Nhưng chủ trương di dân của nhà
Hồ không được lâu dài, chỉ 4 - 5 năm sau quân Minh nấp dưới chiêu bài phù Trần
diệt Hồ sang đánh nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội đó cấu kết với quân Minh lấy
lại đất ấy và phần lớn những di dân người Việt vào đây đã phải theo Nguyễn Lỗ
trở về Thuận Hóa.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Tân
Mão (1471) vua Lê Thánh Tông thân chinh, bình Chiêm thắng lợi, đổi Thăng Châu,
Hoa Châu thành ba huyện Hà Đông, Hy Giang và Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa; Tư
Châu, Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư
Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và
Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới
đây để làm “đầy biên giới. Với chiến thắng này, vua Lê không những thực hiện được
ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại
cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức
là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định). Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy
ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam
Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đặt chức Án sát ở 12 thừa tuyên
và đặt 3 ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Danh xưng Quảng Nam ra đời từ
đó.
Khác với lần di dân trước dưới thời nhà
Hồ, lần này khi di dân Việt đến thì người Chiêm không rời bỏ quê hương ra đi vì
họ biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng nơi mình đang sinh sống và họ
cũng không còn hy vọng lấy lại đất đã mất nên chấp nhận lệ thuộc Đại Việt. Cuộc
di dân dưới thời Lê Thánh Tông vô cùng quan trọng vì giúp người dân yên ổn làm
ăn, không còn nơm nớp lo sợ người Chiêm đến cướp phá như ở Thuận Hóa trước kia.
Sau khi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Phạm Nhữ
Tăng cai quản vùng đất biên cương mới mở của Đại Việt với chức Quảng Nam Thừa
tuyên Đô thống, Thái úy Trình quốc công Nguyễn Đức Trung làm Đô ty Thừa tuyên
Quảng Nam và cử các tướng Nguyễn Văn Lang, Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung là những
vị tướng tài ba đã từng theo vua bình Chiêm, ở lại khai hoang lập ấp, di dân đến
sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới này.
Trong chiến dịch này, từ đất Hoan Châu
(Nghệ An), Bùi Tấn Diên theo đoàn quân nam tiến của vua Lê Thánh Tông giữ nhiệm
vụ vừa đồn thủ vừa khai phá những vùng đất mới thu phục được. Bùi Tấn Diên và
con trai là Bùi Tấn Trường đã ở lại bờ nam của sông Thu Bồn cùng với đoàn di
dân trải qua bao gian khổ khai khẩn đất đai lập nên 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh
Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù bàn, An Lâm.
Ngay khi mới lập ra làng xã, Bùi Tấn
Diên và Bùi Tấn Trường cùng cư dân lục thôn đã dựng Đình Châu để làm nơi sinh
hoạt chung của 6 thôn. Ban đầu đình dựng bằng tranh, lâu năm bị hư hỏng đến năm
Cảnh Hưng thứ 15 (1754) mới được tái thiết và dựng bia kỷ niệm.
Bùi Tấn Diên không những đã có công lớn
trong sự nghiệp khai khẩn, mở mang huyện Duy Xuyên, biến vùng đất biên cương mới
thu phục thành làng mạc trù phú mà ông còn là thủy tổ của một dòng tộc có lắm
nhân tài thành công trên nhiều lĩnh vực.