Tuyến đường Nguyễn Thành Hãn – Nguyễn Tri Phương
Tuyến đường Nguyễn Thành Hãn
Địa Điểm:
KP
Long Xuyên 2, Thị trấn Nam Phước
Lý Trình:
Từ
đường Ông Ích Khiêm đến đường Hùng Vương
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Ông
nguyên là Bí thư Phủ ủy lâm thời Duy Xuyên; Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng
kiêm Ủy viên liên tỉnh Trung Kỳ.
Tiểu sử nhân vật:
Nguyễn
Thành Hãn, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. Năm 1939, ông bị bắt, bị địch
đày lên Nhà đày Buôn Ma Thuột. Đầu năm 1943, ông cùng anh em tù chính trị lập kế
hoạch vượt ngục nhưng không thành. Ông và các đồng chí Đỗ Ngọc Mai, Văn Diệp và
Nguyễn Liễu bị bọn cai ngục sát hại dã man.
Tuyến đường Nguyễn Tri Phương
Địa Điểm:
KP
Long Xuyên 2, Thị trấn Nam Phước
Lý Trình:
Từ
đường Nguyễn Thành Hãn đến đường 28 tháng 3
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Nguyễn
Tri Phương là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ
huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt
trận Đà Nẵng, Gia Định và Hà Nội.
Tiểu sử nhân vật:
Nguyễn
Tri Phương Tên thật là Nguyễn Văn Chương, quê làng Đường Long, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên, còn tên Nguyễn Tri Phương do vua Tự Đức cải tên (1850), hàm ý
nói về con người nghĩa dũng, nhiều mưu chước. Từ đó, Nguyễn Tri Phương trở
thành tên chính của ông. Xuất thân trong một gia đình nông dân, không được qua
trường lớp, nhưng nhờ trí thông minh và ý chí tự học, tự lập cao, đã làm nên sự
nghiệp lớn. Bắt đầu từ chân thơ lại ở cấp huyện, do tài năng mà được tiến cử
lên triều đình Minh Mạng, được thu dụng và lần lượt giữ nhiều chức vụ trọng yếu
suốt ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Năm
1823, làm điển bộ (bí thư ở nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi thừa chỉ ở Nội
các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ (1827), rồi Hồng lô tự khanh
(1831). Năm 1832, sung phái bộ sang Trung Quốc thương lượng về quan hệ thương mại.
Năm 1835, được cử vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng tổ chức lại việc khẩn
hoang. Năm 1840, được bổ Tuần phủ Nam – Ngãi trông coi việc bố phòng cửa biển
Đà Nẵng, thăng Tham tri bộ Công. Năm 1844, vua Thiệu Trị cử ông làm Tỏng đốc An
– Hà (An Giang và Hà Tiên), rồi Tổng đốc Long – Tường (Vĩnh Long và Định Tường).
Năm 1853, làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.
Ngày
01/9/1858, tàu chiến Pháp – Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Rigault de
Genouilly nổ súng, đánh chiếm Đà Nẵng. Quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu,
ngăn bước tiến của giặc. Đô thống Lê Đình Lý trúng đạn, sau đó hy sinh. Vua Tự
Đức điều Nguyễn Tri Phương, võ tướng số một của ta lúc đó, đang làm Kinh lược sứ
Nam Kỳ ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam. Ông đã bố trí lại lực lượng phòng
thủ và đề ra phương thức tác chiến phù hợp với tương quan lực lượng giữa ta và
địch lúc bấy giờ. Ông chủ trương tránh những mũi tiến công chính diện của địch,
mà bao vây, đánh chặn địch ở mé ngoài, liên tục phục kích tiêu hao địch, làm vườn
không nhà trống, cô lập địch với dân.
Thực
tế những diễn biến tình hình quân sự ở Đà Nẵng sau đó đã minh chứng tài thao lược,
và chiến thuật đánh địch của ông là hợp lý, đúng đắn. Đầu tháng 2-1859, Rigault
de Genouilly buộc phải chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Tháng 7-1860, Nguyễn
Tri Phương lại được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ. Trong trận
đánh ngày 25/10/1861, người em ruột của ông, Tán lý Nguyễn Duy tử trận, còn ông
bị thương, đại đồn Chí Hòa thất thủ. Ông bị giáng chức lần nữa xuống làm Tham
tri, sau đó được Tự Đức cho khôi phục hàm Binh bộ Thượng thư Đổng nhung quân vụ
Biên Hòa.
Năm
1862, Nguyễn Tri Phương được cử ra làm Tổng thống quân vụ Hải An. Năm 1871, được
điều về kinh, giữ chức Lại bộ Thượng thư. Tháng 7-1872, vì ở đất Bắc, giặc giã
quấy nhiễu nhiều nơi, vị tướng tài ba này một lần nữa lại được cử làm Bắc Kỳ
Khâm mạng Tuyên sát đổng sức đại thần thay vua để xử lý việc quân.
Ngày
19/11/1873, Francis Garnier theo lệnh của Soái phủ Nam Kỳ đánh úp thành Hà Nội
và chỉ sau mấy giờ thì hạ được thành. Con trai ông, phò mã Nguyễn Lâm, trúng đạn
chết tại trận, còn ông bị trọng thương. Giặc Pháp đưa ông xuống tàu để cứu chữa,
nhưng ông khẳng khái từ chối. Chúng đem thuốc băng bó, ông giật đi, vứt bỏ,
chúng đưa thức ăn vào miệng, ông đều phun ra, không chịu nuốt, mà nói rằng: “Bây
giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung mà chết vì việc
nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu
(20/12/1873).