Tuyến Đường Hùng Vương – Huỳnh
Thúc Kháng
Tuyến đường Hùng Vương
Địa Điểm:
Thị trấn Nam Phước
Lý Trình:
Đường Điện Biên Phủ đến
cầu chìm
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Theo truyền thuyết, Hùng
Vương là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ; ông được tôn làm vua, gọi là Hùng
Vương, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Thời Hùng Vương trải 18
đời.
Tiểu sử nhân vật:
Hùng Vương (雄王) hay Vua Hùng (chữ Nôm: 𤤰雄) là cách gọi dành cho các vị
vua nước Văn Lang của người Lạc Việt, tồn tại vào khoảng thế kỷ 7 tới thế kỷ 2
TCN. Câu chuyện các vua Hùng không có trong chính sử mà nằm trong các truyền
thuyết dân gian của người Việt được kể lại qua nhiều đời. Với người Việt
Nam, các vua Hùng đại diện cho tổ tiên, cho truyền thống dựng nước và là
niềm tự hào về nền văn minh đậm đà bản sắc riêng suốt nhiều nghìn năm.
Theo Đại Việt sử lược và nhiều tài liệu khác, triều đại
Hùng Vương được truyền qua 18 đời, gồm những vị sau.
1. Kinh Dương
Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên
ngôi năm 41 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr. TL) đến Đinh
Hợi (2794 tr. TL).
2. Lạc Long
Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL),
lên ngôi 33 tuổi, ở ngôi tất cả 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm
Bính Thìn (2525 tr. TL).
3. Hùng Quốc
Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, ở
ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr. TL.
4. Hùng Hoa
Vương, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), ở ngôi tất cả 342
năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL).
5. Hùng Hy
Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi,
ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL).
6. Hùng Hồn Vương,
húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, ở
ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL).
7. Hùng Chiêu
Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, ở
ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr.
TL).
8. Hùng Vỹ
Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi,
ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1332 tr.
TL).
9. Hùng Định
Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45
tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr. TL.
10. Hùng Uy
Vương, húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr. TL.
11. Hùng Trinh
Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51
tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất
(1055 tr. TL).
12. Hùng Vũ
Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi
năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm
Tuất (969 tr. TL).
13. Hùng Việt
Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), lên ngôi khi 23 tuổi, ở
ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL).
14. Hùng Anh
Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổi, ở
ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
15. Hùng Triệu
Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35
tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661
tr. TL).
16. Hùng Tạo
Vương, húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), ở ngôi tất cả 92
năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL).
17. Hùng Nghị
Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi,
ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr.
TL).
18. Hùng Duệ
Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả
150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL).
Tuyến đường Chu Văn An
Địa Điểm:
Thị trấn Nam Phước
Lý Trình:
Đường Hùng Vương đến cây
Đa chợ Đình
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Nhà giáo dục triều Trần;
dạy học ở Quốc Tử Giám; có nhiều đóng góp đối với nền giáo dục Việt Nam thời
trung đại.
Tiểu sử nhân vật:
Thầy Chu Văn An
(1292 – 1370), húy danh là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt,
huyện Thanh Đàm (nay là làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Theo Đăng khoa học bổ dị, từ năm 14 tuồi, ông đã thi đậu Thái học sinh
(tương đương với Tiến sĩ) nhưng không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học. Ông
là nhà giáo, thầy thuốc, đại quan dưới triều Trần. Theo Đại Việt sử ký
toàn thư, Chu Văn An "tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch,
không cầu lợi lộc". Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng
gần xa, "học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa".
Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam viết Chu Văn An là thầy giỏi nhưng nghiêm khắc, trọng tài năng của
học trò và ghét những người cậy giàu ham chơi. Học trò của ông có nhiều người
giỏi, có công giúp nước như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, hai quan lớn của triều Trần. Sinh
thời, ông được dân chúng tôn là "Vạn thế sư biểu", nghĩa là người thầy
chuẩn mực muôn đời của Việt Nam.
Thầy Chu Văn An là người
tài đức vẹn toàn. Thầy được vua Trần Minh Tông (1300 - 1357) mời ra làm Tư nghiệp
(Hiệu trưởng) trường Quốc Tử Giám trông coi việc học cho cả nước và
kèm cặp Thái tử Trần Vượng, đào tạo vua mới cho nước nhà.
Đến đời vua Trần Dụ
Tông, triều chính đất nước rối ren. Vua ham mê tửu sắc, nóng nảy, nông cạn.
Trong triều, quyền gian liên kết hoành hành, bên ngoài giặc giã dấy lên cướp
bóc. Thấy chính sự bê bối, nhà giáo Chu Văn An phẫn nộ. Thầy đã viết Thất
trảm sớ, đòi chém 7 kẻ nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Thất
trảm sớ của thầy gây chấn động dư luận bởi theo quy chế lúc bấy giờ,
chỉ quan Ngự sử mới được quyền can gián vua.
Theo Đại Việt sử ký
toàn thư, sau khi dâng Thất trảm sớ nhưng không được vua trả lời, Chu
Văn An rời kinh thành về vùng đất Chí Linh (Hải Dương) mở trường tiếp tục dạy học, dấy
lên phong trào học tập, học trò theo học rất đông, nhiều người học giỏi
nổi tiếng. Đặc biệt, ở đời nhà Mạc, huyện này có bà Nguyễn Thị Duệ thi đỗ tiến
sĩ, là nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của Việt Nam thời phong kiến. Ngoài ra
còn có Nguyễn Phong, mới 14 tuổi đã cùng cha thi đỗ kỳ thi Hương, 26 tuổi đỗ tiến
sĩ.
Những ngày dạy học ở Chí
Linh, Chu Văn An còn trồng cây thuốc, nghiên cứu y học, giúp người dân chữa bệnh.
Dù ở xa, nhiều học trò cũ đã làm quan vẫn về thăm thầy. Đại Việt sử
ký viết khi học trò về thăm, ai làm điều gì chưa đúng phép, thầy vẫn
nghiêm khắc dạy bảo. Điều này khiến học trò càng thêm kính mến.
Cuối đời, Chu Văn An sống
thanh thản trong cảnh nghèo, vui với lớp học, văn chương. Triều đình nhiều lần
mời về nhưng thầy nhất định từ chối. Tháng 11/1370, thầy trút
hơi thở cuối cùng. Sau khi mất, triều đình đã đưa Chu Văn An vào thờ ở Văn
Miếu, xem thầy ngang hàng với những bậc thánh hiền ngày xưa.
"Suốt cuộc đời mình,
Chu Văn An không lúc nào sao nhãng sự nghiệp giáo dục... Điểm nổi bật trong
công lao đóng góp của ông là việc sáng lập nên trường học trong nhân dân; việc
học và dạy có kết quả lớn. Trường Huỳnh Cung đánh dấu một mốc quan trọng trong
lịch trình phát triển sâu rộng của nền giáo dục nước ta", tác giả Trần Lê
Sáng đã khẳng định.
Năm 2018, Việt Nam đã xây
dựng hồ sơ khoa học về danh nhân Chu Văn An để đề nghị UNESCO phối hợp tổ chức
kỷ niệm 650 năm ngày mất của thầy vào năm 2020. Phó chủ tịch Hội đồng
Di sản văn hóa quốc gia Đặng Văn Bài khẳng định rằng Chu Văn An có ảnh
hưởng lớn tới nền giáo dục Việt Nam. Tư tưởng nổi bật của ông là tự học, tự lập,
học tập suốt đời và là tấm gương tôn sư trọng đạo.