image banner
Tuyến Đường Bùi Tấn Diên – Lý Tự Trọng
Lượt xem: 7

Tuyến Đường Bùi Tấn Diên – Lý Tự Trọng

Tuyến Đường Bùi Tấn Diên

Địa Điểm: 

Thị trấn Nam Phước 

Lý Trình:

Từ điểm giáp sau trụ sở NH Đông Á đến Nhà thờ tộc Nguyễn

Tóm tắt tiểu sử nhân vật: 

Người theo vua Lê Thánh Tông mở mang bờ cõi về phương Nam (năm 1471); có công khai phá vùng đất phía Tây huyện Duy Xuyên.

Tiểu sử nhân vật: 

Bùi Tấn Diên quê ở Nghệ An, cho đến nay vẫn không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ 15 dưới triều Lê Thánh Tông. Ông đã theo đoàn quân nam tiến của vua Lê vào Quảng Nam, khai phá vùng đất mới, lập ra làng Vĩnh Trinh.

Huyện Duy Xuyên, trước có tên là huyện Hy Giang thuộc phủ Thăng Hoa nguyên là đất Chiêm động của Chiêm Thành. Thời nhà Hồ, sau khi lên ngôi năm 1402 Hồ Hán Thương đã đem đại binh vượt qua Hải Vân đánh thắng quân Chiêm, chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy mở rộng biên cương đến Quảng Ngãi. Nhà Hồ chia hai động này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị. Họ Hồ hạ lệnh cho dân không có ruộng ở Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ tên châu mình trên cánh tay cho khỏi bỏ trốn. Những người có trâu đem nộp thì được ban phẩm tước để lấy trâu cấp phát cho dân cày. Nhưng chủ trương di dân của nhà Hồ không được lâu dài, chỉ 4 - 5 năm sau quân Minh nấp dưới chiêu bài phù Trần diệt Hồ sang đánh nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội đó cấu kết với quân Minh lấy lại đất ấy và phần lớn những di dân người Việt vào đây đã phải theo Nguyễn Lỗ trở về Thuận Hóa.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Tân Mão (1471) vua Lê Thánh Tông thân chinh, bình Chiêm thắng lợi, đổi Thăng Châu, Hoa Châu thành ba huyện Hà Đông, Hy Giang và Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa; Tư Châu, Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới đây để làm “đầy biên giới. Với chiến thắng này, vua Lê không những thực hiện được ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định). Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đặt chức Án sát ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Danh xưng Quảng Nam ra đời từ đó.

Khác với lần di dân trước dưới thời nhà Hồ, lần này khi di dân Việt đến thì người Chiêm không rời bỏ quê hương ra đi vì họ biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng nơi mình đang sinh sống và họ cũng không còn hy vọng lấy lại đất đã mất nên chấp nhận lệ thuộc Đại Việt. Cuộc di dân dưới thời Lê Thánh Tông vô cùng quan trọng vì giúp người dân yên ổn làm ăn, không còn nơm nớp lo sợ người Chiêm đến cướp phá như ở Thuận Hóa trước kia. Sau khi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Phạm Nhữ Tăng cai quản vùng đất biên cương mới mở của Đại Việt với chức Quảng Nam Thừa tuyên Đô thống, Thái úy Trình quốc công Nguyễn Đức Trung làm Đô ty Thừa tuyên Quảng Nam và cử các tướng Nguyễn Văn Lang, Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung là những vị tướng tài ba đã từng theo vua bình Chiêm, ở lại khai hoang lập ấp, di dân đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới này.

Trong chiến dịch này, từ đất Hoan Châu (Nghệ An), Bùi Tấn Diên theo đoàn quân nam tiến của vua Lê Thánh Tông giữ nhiệm vụ vừa đồn thủ vừa khai phá những vùng đất mới thu phục được. Bùi Tấn Diên và con trai là Bùi Tấn Trường đã ở lại bờ nam của sông Thu Bồn cùng với đoàn di dân trải qua bao gian khổ khai khẩn đất đai lập nên 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù bàn, An Lâm.

Ngay khi mới lập ra làng xã, Bùi Tấn Diên và Bùi Tấn Trường cùng cư dân lục thôn đã dựng Đình Châu để làm nơi sinh hoạt chung của 6 thôn. Ban đầu đình dựng bằng tranh, lâu năm bị hư hỏng đến năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) mới được tái thiết và dựng bia kỷ niệm.

Bùi Tấn Diên không những đã có công lớn trong sự nghiệp khai khẩn, mở mang huyện Duy Xuyên, biến vùng đất biên cương mới thu phục thành làng mạc trù phú mà ông còn là thủy tổ của một dòng tộc có lắm nhân tài thành công trên nhiều lĩnh vực.

 

 

 

 

Tuyến đường Lý Tự Trọng

Địa Điểm: 

Thị trấn Nam Phước 

Lý Trình:

Từ đường Điện Biên Phủ đến đường Lê Lợi

Tóm tắt tiểu sử nhân vật: 

Liệt sĩ; Đoàn viên đầu tiên của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Tiểu sử nhân vật: 

Anh Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng còn được gọi là Huy sinh ngày 20/10 /1914 quê gốc ở làng Việt Xuyên, xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Anh sinh ra tại làng Bản Mạy, tỉnh NaKhon - Thái Lan. Anh là con trai cụ Lê Hữu Đạt, do không chịu cảnh áp bức- bóc lột của thực dân phong kiến, cụ đã cùng gia đình sang Thái Lan sinh sống và tham gia hoạt động yêu nước. Anh được theo học tại trường do cụ Đặng Thúc Hứa - một sỹ phu yêu nước tổ chức. Anh học rất giỏi và thành thạo tiếng Trung, tiếng Anh và tiếng Thái Lan.

Năm 1926, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cử đồng chí Hồ Tùng Mậu đến Thái Lan chọn Anh và một số thiếu niên con em gia đình Việt kiều yêu nước đưa sang Quảng Châu -Trung Quốc học tập để chuẩn bị xây dựng tổ chức Thanh niên Cộng sản ở Việt Nam. Đến Quảng Anh được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lúc này mang tên Lý Thụy. Để đảm bảo bí mật, các thiếu niên đều mang họ Lý coi như người trong một gia tộc, do đó anh Lê Hữu Trọng đổi tên thành Lý Tự Trọng.

Năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời, Anh được cử về nước hoạt động tại Sài Gòn đảm nhận nhiệm vụ liên lạc cho Xứ ủy Nam Kỳ và Trung ương Đảng, đồng thời được giao nhiệm vụ đặc biệt: vận động tập hợp thanh niên trong các nhà máy, trường học để thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản trong nước.

Ngày 08/02/1931, tại tại quảng trường Lareni-Sài Gòn, các chiến sỹ cách mạng tổ chức một cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng đánh đuổi thực dân Pháp. Giữa lúc ấy tên thanh tra mật thám người Pháp Le Grand và bọn quân cảnh đi cùng ập tới. Để cứu đồng chí của mình, Anh bắn chết tên thanh tra mật thám và bị thực dân Pháp bắt.

Bọn chúng dùng mọi thủ đoạn tàn ác tra tấn nhưng với sự kiên trung của người thanh niên cách mạng Anh không khai bất cứ điều gì. Chính quyền bù nhìn của thực dân Pháp đã mở một phiên tòa đại hình để xử một chiến sĩ cộng sản Việt Nam chưa đầy 18 tuổi, Anh bị kết án tử hình. Đứng trước cái chết, Anh không hề run sợ đã chủ động biến phiên tòa của Đế quốc thành một diễn đàn của người chiến sĩ cộng sản, Anh đã nói: “... con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác.”

Nửa đêm ngày 21/11/1931 Thực dân Pháp đã hèn hạ dựng máy chém ở ngay khám lớn Sài Gòn hòng giết Anh trong im lặng, nhưng tấm gương đấu tranh kiên cường bất khuất, anh dũng của Anh đã làm cho kẻ thù khiếp sợ và cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng trong cả nước, mãi ghi dấu ấn vào lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam.

 

 

Tin mới
Thư viện Ảnh
select
Thống kê truy cập
  • Đang online: 7
  • Hôm nay: 22
  • Trong tuần: 298
  • Tất cả: 3700

ĐƠN VỊ CHỦ QUẢN: ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ NAM PHƯỚC - TP ĐÀ NẴNG

ĐỊA CHỈ: 468 HÙNG VƯƠNG, XÃ NAM PHƯỚC, TP ĐÀ NẴNG