Tuyến Đường Bùi Tấn Diên – Lý Tự
Trọng
Tuyến Đường Bùi Tấn Diên
Địa Điểm:
Thị trấn Nam
Phước
Lý Trình:
Từ điểm giáp sau trụ sở NH Đông Á đến Nhà thờ
tộc Nguyễn
Tóm tắt tiểu sử nhân vật:
Người theo vua Lê Thánh Tông mở mang bờ cõi về phương Nam
(năm 1471); có công khai phá vùng đất phía Tây huyện Duy Xuyên.
Tiểu sử nhân vật:
Bùi Tấn Diên quê ở Nghệ An, cho đến nay
vẫn không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống vào khoảng nửa cuối thế
kỷ 15 dưới triều Lê Thánh Tông. Ông đã theo đoàn quân nam tiến của vua Lê vào
Quảng Nam, khai phá vùng đất mới, lập ra làng Vĩnh Trinh.
Huyện Duy Xuyên, trước có tên là huyện
Hy Giang thuộc phủ Thăng Hoa nguyên là đất Chiêm động của Chiêm Thành. Thời nhà
Hồ, sau khi lên ngôi năm 1402 Hồ Hán Thương đã đem đại binh vượt qua Hải Vân
đánh thắng quân Chiêm, chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy mở rộng biên cương đến Quảng
Ngãi. Nhà Hồ chia hai động này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ
sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị. Họ Hồ hạ lệnh cho dân không có ruộng ở
Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ tên
châu mình trên cánh tay cho khỏi bỏ trốn. Những người có trâu đem nộp thì được
ban phẩm tước để lấy trâu cấp phát cho dân cày. Nhưng chủ trương di dân của nhà
Hồ không được lâu dài, chỉ 4 - 5 năm sau quân Minh nấp dưới chiêu bài phù Trần
diệt Hồ sang đánh nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội đó cấu kết với quân Minh lấy
lại đất ấy và phần lớn những di dân người Việt vào đây đã phải theo Nguyễn Lỗ
trở về Thuận Hóa.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Tân
Mão (1471) vua Lê Thánh Tông thân chinh, bình Chiêm thắng lợi, đổi Thăng Châu,
Hoa Châu thành ba huyện Hà Đông, Hy Giang và Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa; Tư
Châu, Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư
Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và
Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới
đây để làm “đầy biên giới. Với chiến thắng này, vua Lê không những thực hiện được
ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại
cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức
là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định). Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy
ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam
Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đặt chức Án sát ở 12 thừa tuyên
và đặt 3 ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Danh xưng Quảng Nam ra đời từ
đó.
Khác với lần di dân trước dưới thời nhà
Hồ, lần này khi di dân Việt đến thì người Chiêm không rời bỏ quê hương ra đi vì
họ biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng nơi mình đang sinh sống và họ
cũng không còn hy vọng lấy lại đất đã mất nên chấp nhận lệ thuộc Đại Việt. Cuộc
di dân dưới thời Lê Thánh Tông vô cùng quan trọng vì giúp người dân yên ổn làm
ăn, không còn nơm nớp lo sợ người Chiêm đến cướp phá như ở Thuận Hóa trước kia.
Sau khi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Phạm Nhữ
Tăng cai quản vùng đất biên cương mới mở của Đại Việt với chức Quảng Nam Thừa
tuyên Đô thống, Thái úy Trình quốc công Nguyễn Đức Trung làm Đô ty Thừa tuyên
Quảng Nam và cử các tướng Nguyễn Văn Lang, Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung là những
vị tướng tài ba đã từng theo vua bình Chiêm, ở lại khai hoang lập ấp, di dân đến
sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới này.
Trong chiến dịch này, từ đất Hoan Châu
(Nghệ An), Bùi Tấn Diên theo đoàn quân nam tiến của vua Lê Thánh Tông giữ nhiệm
vụ vừa đồn thủ vừa khai phá những vùng đất mới thu phục được. Bùi Tấn Diên và
con trai là Bùi Tấn Trường đã ở lại bờ nam của sông Thu Bồn cùng với đoàn di
dân trải qua bao gian khổ khai khẩn đất đai lập nên 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh
Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù bàn, An Lâm.
Ngay khi mới lập ra làng xã, Bùi Tấn
Diên và Bùi Tấn Trường cùng cư dân lục thôn đã dựng Đình Châu để làm nơi sinh
hoạt chung của 6 thôn. Ban đầu đình dựng bằng tranh, lâu năm bị hư hỏng đến năm
Cảnh Hưng thứ 15 (1754) mới được tái thiết và dựng bia kỷ niệm.
Bùi Tấn Diên không những đã có công lớn
trong sự nghiệp khai khẩn, mở mang huyện Duy Xuyên, biến vùng đất biên cương mới
thu phục thành làng mạc trù phú mà ông còn là thủy tổ của một dòng tộc có lắm
nhân tài thành công trên nhiều lĩnh vực.
Tuyến đường
Lý Tự Trọng
Địa Điểm:
Thị trấn Nam Phước
Lý Trình:
Từ đường Điện Biên Phủ đến đường Lê Lợi
Tóm tắt tiểu
sử nhân vật:
Liệt sĩ; Đoàn viên đầu tiên của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh.
Tiểu sử
nhân vật:
Anh Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng còn được
gọi là Huy sinh ngày 20/10 /1914 quê gốc ở làng Việt Xuyên, xã Thạch Minh, huyện
Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Anh sinh ra tại làng Bản Mạy, tỉnh NaKhon - Thái Lan.
Anh là con trai cụ Lê Hữu Đạt, do không chịu cảnh áp bức- bóc lột của thực dân
phong kiến, cụ đã cùng gia đình sang Thái Lan sinh sống và tham gia hoạt động
yêu nước. Anh được theo học tại trường do cụ Đặng Thúc Hứa - một sỹ phu yêu nước
tổ chức. Anh học rất giỏi và thành thạo tiếng Trung, tiếng Anh và tiếng Thái
Lan.
Năm 1926, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cử đồng chí Hồ
Tùng Mậu đến Thái Lan chọn Anh và một số thiếu niên con em gia đình Việt kiều
yêu nước đưa sang Quảng Châu -Trung Quốc học tập để chuẩn bị xây dựng tổ chức
Thanh niên Cộng sản ở Việt Nam. Đến Quảng Anh được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
lúc này mang tên Lý Thụy. Để đảm bảo bí mật, các thiếu niên đều mang họ Lý coi
như người trong một gia tộc, do đó anh Lê Hữu Trọng đổi tên thành Lý Tự Trọng.
Năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt
ra đời, Anh được cử về nước hoạt động tại Sài Gòn đảm nhận nhiệm vụ liên lạc
cho Xứ ủy Nam Kỳ và Trung ương Đảng, đồng thời được giao nhiệm vụ đặc biệt: vận
động tập hợp thanh niên trong các nhà máy, trường học để thành lập Đoàn Thanh
niên Cộng sản trong nước.
Ngày 08/02/1931, tại tại quảng trường Lareni-Sài
Gòn, các chiến sỹ cách mạng tổ chức một cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng đánh
đuổi thực dân Pháp. Giữa lúc ấy tên thanh tra mật thám người Pháp Le Grand và bọn
quân cảnh đi cùng ập tới. Để cứu đồng chí của mình, Anh bắn chết tên thanh tra
mật thám và bị thực dân Pháp bắt.
Bọn chúng dùng mọi thủ đoạn tàn ác tra tấn nhưng với
sự kiên trung của người thanh niên cách mạng Anh không khai bất cứ điều gì.
Chính quyền bù nhìn của thực dân Pháp đã mở một phiên tòa đại hình để xử một
chiến sĩ cộng sản Việt Nam chưa đầy 18 tuổi, Anh bị kết án tử hình. Đứng trước
cái chết, Anh không hề run sợ đã chủ động biến phiên tòa của Đế quốc thành một
diễn đàn của người chiến sĩ cộng sản, Anh đã nói: “... con đường của
thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào
khác.”
Nửa đêm ngày 21/11/1931 Thực dân Pháp đã hèn hạ dựng
máy chém ở ngay khám lớn Sài Gòn hòng giết Anh trong im lặng, nhưng tấm gương đấu
tranh kiên cường bất khuất, anh dũng của Anh đã làm cho kẻ thù khiếp sợ và cổ
vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng trong cả nước, mãi ghi dấu ấn vào lịch sử đấu
tranh của dân tộc Việt Nam.