image banner
Tuyến Đường 28 tháng 3 – Nguyễn Tri Phương
Lượt xem: 8

Tuyến Đường 28 tháng 3 – Nguyễn Tri Phương

Tuyến Đường 28 tháng 3

Địa Điểm: 

Thị trấn Nam Phước 

Lý Trình:

Đường Huyền Trân Công Chúa đến đường Hùng Vương

Tóm tắt sự kiện:

Tháng 3-1929, một chi bộ cộng sản được thành lập ở phố Hàm Long (Hà Nội). Ngày 17-6-1929, những người tiên tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đứng ra thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, phát đi Tuyên ngôn và Cương lĩnh của đảng. 

Tháng 9-1929, Đảng bộ Cộng sản tỉnh Quảng Nam được thành lập. Tỉnh ủy lâm thời gồm Phan Văn Định (bí thư) Phạm Thâm (phó bí thư), Nguyễn Thái (ủy viên). 

Ngày 3-2-1930, tại Cửu Long, gần Hồng Kông, một hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (An Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính cương vắn tắt của đảng Cộng sản nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. 

Ngày 28-3-1930, Ban Chấp hành lâm thời ra thông cáo về việc thành lập Đảng bộ đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy lâm thời gồm: Phan Văn Định (Bí thư), Phạm Thâm, Nguyễn Thái. Tổng số đảng viên trong tỉnh vào cuối năm 1930 lên đến 80 người.

Như vậy là chỉ trong vòng hai tháng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập (28-3-1930) với một hệ thống tổ chức, lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở bằng con đường phát triển các tổ chức tiền thân, chủ yếu là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

 

 

 

 

 

Tuyến đường Nguyễn Tri Phương

Địa Điểm: 

KP Long Xuyên 2, Thị trấn Nam Phước 

Lý Trình:

Từ đường Nguyễn Thành Hãn đến đường 28 tháng 3

Tóm tắt tiểu sử nhân vật: 

Nguyễn Tri Phương là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng, Gia Định và Hà Nội. 

Tiểu sử nhân vật: 

Nguyễn Tri Phương Tên thật là Nguyễn Văn Chương, quê làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, còn tên Nguyễn Tri Phương do vua Tự Đức cải tên (1850), hàm ý nói về con người nghĩa dũng, nhiều mưu chước. Từ đó, Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Xuất thân trong một gia đình nông dân, không được qua trường lớp, nhưng nhờ trí thông minh và ý chí tự học, tự lập cao, đã làm nên sự nghiệp lớn. Bắt đầu từ chân thơ lại ở cấp huyện, do tài năng mà được tiến cử lên triều đình Minh Mạng, được thu dụng và lần lượt giữ nhiều chức vụ trọng yếu suốt ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

Năm 1823, làm điển bộ (bí thư ở nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ (1827), rồi Hồng lô tự khanh (1831). Năm 1832, sung phái bộ sang Trung Quốc thương lượng về quan hệ thương mại. Năm 1835, được cử vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng tổ chức lại việc khẩn hoang. Năm 1840, được bổ Tuần phủ Nam – Ngãi trông coi việc bố phòng cửa biển Đà Nẵng, thăng Tham tri bộ Công. Năm 1844, vua Thiệu Trị cử ông làm Tỏng đốc An – Hà (An Giang và Hà Tiên), rồi Tổng đốc Long – Tường (Vĩnh Long và Định Tường). Năm 1853, làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.

Ngày 01/9/1858, tàu chiến Pháp – Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Rigault de Genouilly nổ súng, đánh chiếm Đà Nẵng. Quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, ngăn bước tiến của giặc. Đô thống Lê Đình Lý trúng đạn, sau đó hy sinh. Vua Tự Đức điều Nguyễn Tri Phương, võ tướng số một của ta lúc đó, đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam. Ông đã bố trí lại lực lượng phòng thủ và đề ra phương thức tác chiến phù hợp với tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc bấy giờ. Ông chủ trương tránh những mũi tiến công chính diện của địch, mà bao vây, đánh chặn địch ở mé ngoài, liên tục phục kích tiêu hao địch, làm vườn không nhà trống, cô lập địch với dân.

Thực tế những diễn biến tình hình quân sự ở Đà Nẵng sau đó đã minh chứng tài thao lược, và chiến thuật đánh địch của ông là hợp lý, đúng đắn. Đầu tháng 2-1859, Rigault de Genouilly buộc phải chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Tháng 7-1860, Nguyễn Tri Phương lại được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ. Trong trận đánh ngày 25/10/1861, người em ruột của ông, Tán lý Nguyễn Duy tử trận, còn ông bị thương, đại đồn Chí Hòa thất thủ. Ông bị giáng chức lần nữa xuống làm Tham tri, sau đó được Tự Đức cho khôi phục hàm Binh bộ Thượng thư Đổng nhung quân vụ Biên Hòa.

Năm 1862, Nguyễn Tri Phương được cử ra làm Tổng thống quân vụ Hải An. Năm 1871, được điều về kinh, giữ chức Lại bộ Thượng thư. Tháng 7-1872, vì ở đất Bắc, giặc giã quấy nhiễu nhiều nơi, vị tướng tài ba này một lần nữa lại được cử làm Bắc Kỳ Khâm mạng Tuyên sát đổng sức đại thần thay vua để xử lý việc quân.

Ngày 19/11/1873, Francis Garnier theo lệnh của Soái phủ Nam Kỳ đánh úp thành Hà Nội và chỉ sau mấy giờ thì hạ được thành. Con trai ông, phò mã Nguyễn Lâm, trúng đạn chết tại trận, còn ông bị trọng thương. Giặc Pháp đưa ông xuống tàu để cứu chữa, nhưng ông khẳng khái từ chối. Chúng đem thuốc băng bó, ông giật đi, vứt bỏ, chúng đưa thức ăn vào miệng, ông đều phun ra, không chịu nuốt, mà nói rằng: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung mà chết vì việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu (20/12/1873).

 

Tin mới
Thư viện Ảnh
select
Thống kê truy cập
  • Đang online: 19
  • Hôm nay: 37
  • Trong tuần: 313
  • Tất cả: 3715

ĐƠN VỊ CHỦ QUẢN: ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ NAM PHƯỚC - TP ĐÀ NẴNG

ĐỊA CHỈ: 468 HÙNG VƯƠNG, XÃ NAM PHƯỚC, TP ĐÀ NẴNG